Thừa kế di sản do cha mẹ để lại luôn là vấn đề phát sinh nhiều tranh chấp. Một số người trước khi chết đã kịp lập di chúc thể hiện ý nguyện của mình về việc giao lại số tài sản đã tạo lập, có thể là nhà đất hoặc tiền vàng. Nhưng cũng có một số người không lập di chúc mà mặc nhiên cho rằng người con nào đang ở cùng và phụng dưỡng cha mẹ thì sẽ được hưởng. Thực tế không đơn giản như vậy, ngày nay có rất nhiều trường hợp tranh chấp di sản thừa kế diễn ra bao gồm cả trường hợp có di chúc và không có di chúc.

Trường hợp tranh chấp di sản mà chúng tôi đã tư vấn cho khách hàng cũng phát sinh tranh chấp mặc dù trước khi chết, cha mẹ đã lập di chúc xác định những người được thừa kế di sản. Vụ việc có nội dung như sau: cha mẹ có tất cả 11 người con, trước khi chết cha mẹ có lập di chúc để lại di sản là một căn nhà cho 05 người con trong số 11 người con. Người mẹ chết trước người cha 01 năm, sau khi cha mẹ chết những người có tên trong di chúc tiến hành thủ tục khai nhận di sản thừa kế. Tuy nhiên, cơ quan công chứng yêu cầu 06 người con không có tên trong di chúc phải làm văn bản từ chối nhận di sản và họ rất hoang mang không biết yêu cầu như vậy có đúng hay không vì những người này không được để lại di sản thì tại sao phải từ chối di sản. Để giải đáp thắc mắc trong tình huống trên, chúng tôi xin nêu ý kiến pháp lý của mình trên cơ sở quy định của pháp luật hiện hành về thừa kế theo di chúc như sau:

Căn cứ vào Điều 644 BLDS 2015 quy định về người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc bao gồm: cha, mẹ, vợ, chồng; con chưa thành niên; con đã thành niên mà không có khả năng lao động. Do đó, mặc dù người mẹ chỉ lập di chúc cho 05 người con nhưng người chồng vẫn được hưởng 2/3 một suất theo quy định của pháp luật. Khi người chồng chết thì phần mà người chồng được hưởng từ vợ là di sản thừa kế không có di chúc.

Căn cứ vào quy định tại điểm a, Khoản 1 Điều 650, 651 BLDS 2015, thì phần di sản không có di chúc sẽ được chia theo quy định của pháp luật. Những người được thừa kế theo quy định của pháp luật thuộc hàng thừa kế thứ nhất bao gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết. Do đó, cả 11 người con đều thuộc hàng thừa kế thứ nhất đối với phần di sản mà người chồng thừa kế từ vợ. Vì vậy, để thực hiện thủ tục thừa kế, 06 người con không có tên trong di chúc phải từ chối nhận phần di sản do người cha để lại theo quy định của pháp luật.

Việc lập di chúc để tự định đoạt tài sản của mình sau khi chết, là việc phổ biến và sự lựa chọn của nhiều người, thông thường di chúc sẽ được lập thành văn bản có công chứng hoặc chứng nhận, tuy nhiên, luật vẫn cho phép di chúc miệng (di chúc bằng lời nói) trong một số trường hợp, các quy định liên quan chi tiết như sau:

1. Di chúc miệng theo quy định của pháp luật:

Theo quy định tại Điều 624 và Điều 627 Bộ luật dân sự 2015 (BLDS)

– Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết.

– Di chúc phải được lập thành văn bản; nếu không thể lập được di chúc bằng văn bản thì có thể di chúc miệng.

– Trường hợp tính mạng một người bị cái chết đe dọa và không thể lập di chúc bằng văn bản thì có thể lập di chúc miệng.

Như vậy, theo quy định, thì người để lại di chúc chỉ được lập di chúc miệng, khi rơi vào các hoàn cảnh ngặt nghèo như: tai nạn, bị cái chết đe dọa,… mà người đó không thể lập di chúc bằng văn bản, nhưng có nguyện vọng để lại di sản cho những người thừa kế.

2. Hiệu lực của di chúc miệng:

2.1 Điều kiện được lập di chúc miệng

Theo quy định tại khoản 5 Điều 630 BLDS, di chúc miệng được coi là hợp pháp khi đáp ứng ba điều kiện sau:

– Người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng.

– Ngay sau khi người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng, người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ.

– Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng viên hoặc cơ quan có thẩm quyền chứng thực xác nhận chữ ký hoặc điểm chỉ của người làm chứng.

2.2 Điều kiện đối với người lập di chúc miệng:

Như trên phân tích, thì chỉ trong hoàn cảnh nguy kịch, tai nạn hoặc bị cái chết đe dọa ,… người lập di chúc có thể được phép để lại di chúc miệng, nhưng vẫn phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện về năng lực lập di chúc theo quy định của BLDS cụ thể như sau:

– Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc;

– Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của luật.

– Di chúc của người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi phải được lập thành văn bản và phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc.

– Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực

2.3 Điều kiện đối với người làm chứng:

Người làm chứng đối với di chúc miệng cũng phải đáp ứng điều kiện theo quy định tại Điều 632 BLDS:

Mọi người đều có thể làm chứng cho việc lập di chúc, trừ những người sau đây không được phép làm chứng: 

– Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc.

Những người thừa kế theo pháp luật của người lập di chúc theo quy định tại Điều 651 BLDS gồm:

+ Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;

+ Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;

+ Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.

– Người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc.

– Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.

3. Trường hợp nào di chúc miệng bị huỷ bỏ:

Theo quy định tại Điều 629 BLDS, sau 03 tháng kể từ thời điểm di chúc miệng mà người lập di chúc còn sống, minh mẫn, sáng suốt thì di chúc miệng đương nhiên bị hủy bỏ.

Trường hợp người lập di chúc miệng đủ điều kiện lập di chúc, nhưng người làm chứng của người lập di chúc không đáp ứng các điều kiện theo quy định của BLDS hoặc người lập di chúc miệng và nội dung di chúc không đáp ứng các điều kiện theo quy định BLDS thì di chúc miệng có thể bị hủy bỏ.

Câu hỏi tư vấn:

Cha đứng tên đồng sử dụng QSD đất và QSH nhà ở cùng với bà nội và người chú. Người chú đã thế chấp nhà đất trên và được vay vốn ngân hàng với tư cách cá nhân. Khi cha chết thì người chú vẫn chưa đáo hạn trả nợ ngân hàng. Vậy các đồng thừa kế của người chết có phải liên đới trả nợ vay của người chú không? Các đồng thừa kế muốn khai di sản thừa kế  được không và thủ tục như thế nào? Kính nhờ luật sư tư vấn giúp.

Trả lời:

Người chú đã đi thế chấp căn nhà với tư cách cá nhân và có sự đồng ý của người cha và bà nội, theo quy định tại K2 Điều 64 NĐ 43/2014: “Hợp đồng, văn bản giao dịch về quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất của nhóm người sử dụng đất, nhóm chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất phải được tất cả các thành viên trong nhóm ký tên hoặc có văn bản ủy quyền theo quy định của pháp luật về dân sự, trừ trường hợp các chủ sở hữu căn hộ cùng sử dụng chung thửa đất trong nhà chung cư”. Ngoài ra Điều 145 Luật nhà ở 2014 cũng quy định rằng “Việc thế chấp nhà ở thuộc sở hữu chung phải được sự đồng ý bằng văn bản của các chủ sở hữu nhà ở thuộc sở hữu chung, trừ trường hợp thế chấp nhà ở thuộc sở hữu chung theo phần. Các chủ sở hữu nhà ở thuộc sở hữu chung hợp nhất có trách nhiệm liên đới trong việc thực hiện nghĩa vụ của bên thế chấp nhà ở theo quy định của Bộ luật dân sự”. Như vậy, người chú đã thế chấp tài sản hợp pháp với sự đồng ý của các đồng sở hữu.

Vậy các đồng thừa kế của người chết có phải liên đới trả nợ vay của người chú không? Các đồng thừa kế muốn khai di sản thừa kế được không và thủ tục như thế nào?

Nếu người chú vẫn chưa đáo hạn trả nợ ngân hàng, đến hạn thì ngân hàng sẽ thực hiện các biện pháp theo quy định pháp luật để yêu cầu người vay phải trả nợ và để đảm bảo thực hiện được việc thi hành án theo Bản án hoặc Quyết định có hiệu lực pháp luật, thì có thể sẽ kê biên, tổ chức bán đấu giá tài sản thế chấp theo quy định. Do xác định bên vay là cá nhân nên chỉ có người chú phải chịu trách nhiệm thanh toán tiền vay, những đồng sở hữu không có trách nhiệm liên đới.

Các đồng thừa kế muốn thực hiện được thủ tục khai di sản thừa kế, thì phải tất toán khoản vay trên và tiến hành xoá thế chấp, thực hiện quy trình khai nhận thừa kế theo pháp luật, nếu không có di chúc.

Hồ sơ cần chuẩn bị như sau:

+ Giấy chứng tử của người chết, giấy chứng tử của ông nội( nếu chết), Giấy đăng ký kết hôn của người chết. Giấy khai sinh của con.

+ Các giấy tờ nhân thân: Chứng minh nhân dân, Căn cước công dân hoặc hộ chiếu hoặc sổ hộ khẩu, sổ tạm trú… của người khai nhận di sản thừa kế

+  Các giấy tờ về tài sản: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và qyền sở hữu nhà ở, Thông báo lệ phí trước bạ.

Theo quy định pháp luật hiện hành, thì người từ đủ 15 tuổi đến dưới mười tám tuổi không có quyền tự mình xác lập các giao dịch dân sự liên quan đến bất động sản, mà phải có người đại diện theo pháp luật thực hiện thay.

Cụ thể, khoản 4 Điều 21 Bộ luật dân sự 2015 quy định như sau:

“Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự, trừ giao dịch dân sự liên quan đến bất động sản, động sản phải đăng ký và giao dịch dân sự khác theo quy định của luật phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý.”

Về người đại diện theo pháp luật của cá nhân, tại Điều 136 BLDS 2015 có quy định:

“1. Cha, mẹ đối với con chưa thành niên.

2. Người giám hộ đối với người được giám hộ. Người giám hộ của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi là người đại diện theo pháp luật nếu được Tòa án chỉ định.

3. Người do Tòa án chỉ định trong trường hợp không xác định được người đại diện quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này.

4. Người do Tòa án chỉ định đối với người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.”

Như vậy, nếu không thuộc các trường hợp đặc biệt theo khoản 2,3,4 Điều 136 BLDS 2015 thì cha hoặc mẹ chính là người đại diện theo pháp luật của người con từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi.

Và phạm vi đại diện, theo quy định tại khoản 3 Điều 141 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định thì: “Một cá nhân, pháp nhân có thể đại diện cho nhiều cá nhân hoặc pháp nhân khác nhau nhưng không được nhân danh người được đại diện để xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với chính mình hoặc với bên thứ ba mà mình cũng là người đại diện với người đó, trừ pháp luật có quy định khác”.

Theo quy định trên, thì cha hoặc mẹ chỉ có thể đại diện cho con chưa thành niên để ký kết văn bản khai nhận thừa kế và nếu ký kết văn bản thoả thuận phân chia thừa kế, chỉ được ký với một tư cách, không thể ký với đồng thời 2 tư cách là người nhận di sản và người đại diện của người dưới 18 tuổi tặng cho di sản thừa kế cho chính mình.

Câu hỏi tư vấn:

Cha đứng tên đồng sử dụng QSD đất và QSH nhà ở cùng với bà nội và người chú. Người chú đã thế chấp nhà đất trên và được vay vốn ngân hàng với tư cách cá nhân. Khi cha chết thì người chú vẫn chưa đáo hạn trả nợ ngân hàng. Vậy các đồng thừa kế của người chết có phải liên đới trả nợ vay của người chú không? Các đồng thừa kế muốn khai di sản thừa kế được không và thủ tục như thế nào? Kính nhờ luật sư tư vấn giúp.

Trả lời:

Người chú đã đi thế chấp căn nhà với tư cách cá nhân và có sự đồng ý của người cha và bà nội, theo quy định tại K2 Điều 64 NĐ 43/2014: “Hợp đồng, văn bản giao dịch về quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất của nhóm người sử dụng đất, nhóm chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất phải được tất cả các thành viên trong nhóm ký tên hoặc có văn bản ủy quyền theo quy định của pháp luật về dân sự, trừ trường hợp các chủ sở hữu căn hộ cùng sử dụng chung thửa đất trong nhà chung cư”. Ngoài ra Điều 145 Luật nhà ở 2014 cũng quy định rằng “Việc thế chấp nhà ở thuộc sở hữu chung phải được sự đồng ý bằng văn bản của các chủ sở hữu nhà ở thuộc sở hữu chung, trừ trường hợp thế chấp nhà ở thuộc sở hữu chung theo phần. Các chủ sở hữu nhà ở thuộc sở hữu chung hợp nhất có trách nhiệm liên đới trong việc thực hiện nghĩa vụ của bên thế chấp nhà ở theo quy định của Bộ luật dân sự”. Như vậy, người chú đã thế chấp tài sản hợp pháp với sự đồng ý của các đồng sở hữu.

Vậy các đồng thừa kế của người chết có phải liên đới trả nợ vay của người chú không? Các đồng thừa kế muốn khai di sản thừa kế được không và thủ tục như thế nào?

Nếu người chú vẫn chưa đáo hạn trả nợ ngân hàng, đến hạn thì ngân hàng sẽ thực hiện các biện pháp theo quy định pháp luật để yêu cầu người vay phải trả nợ và để đảm bảo thực hiện được việc thi hành án theo Bản án hoặc Quyết định có hiệu lực pháp luật, có thể sẽ kê biên, tổ chức bán đấu giá tài sản thế chấp theo quy định. Do xác định bên vay là cá nhân nên chỉ có người chú phải chịu trách nhiệm thanh toán tiền vay, những đồng sở hữu không có trách nhiệm liên đới.

Các đồng thừa kế muốn thực hiện được thủ tục khai di sản thừa kế, thì phải tất toán khoản vay trên và tiến hành xoá thế chấp, thực hiện quy trình khai nhận thừa kế theo pháp luật, nếu không có di chúc.

Hồ sơ cần chuẩn bị như sau:

+ Giấy chứng tử của người chết, giấy chứng tử của ông nội (nếu chết), Giấy đăng ký kết hôn của người chết. Giấy khai sinh của con.

+ Các giấy tờ nhân thân: Chứng minh nhân dân, Căn cước công dân hoặc hộ chiếu hoặc sổ hộ khẩu, sổ tạm trú… của người khai nhận di sản thừa kế

+  Các giấy tờ về tài sản: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và qyền sở hữu nhà ở, Thông báo lệ phí trước bạ.

Khi cha mẹ lập di chúc để lại tài sản, nhưng người con vì nhiều lý do không muốn nhận di sản, như: đã có cuộc sống đã đầy đủ, muốn nhường phần di sản đó cho những người khác hoặc đang định cư ở nước ngoài không có điều kiện về Việt Nam để làm thủ tục nhận di sản.

Vậy những người có tên trong di chúc có được quyền từ chối nhận di sản hay không? Hiện nay, các phòng công chứng cũng có nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề này, có nơi cho rằng người đã được chỉ định trong di chúc thì không được quyền từ chối mà phải làm thủ tục nhận di sản, sau đó mới tặng cho lại các đồng thừa kế khác, nhưng cũng có một số quan điểm lại cho rằng người có tên trong di chúc vẫn được từ chối nhận di sản.

Văn phòng luật sư Lê Giang đã tiếp nhận tư vấn và giải quyết một tình huống tương tự, cụ thể khách hàng là người được cha lập di chúc để lại di sản và di chúc đó đã lập cách đây hơn 20 năm, người cha vừa qua đời được khoảng 03 năm và gia đình đang làm thủ tục khai nhận di sản, nhưng vì nay hiện đang định cư ở nước ngoài và không muốn nhận di sản nên có ý từ chối, nhưng khi đến phòng công chứng làm thủ tục thì được giải thích di chúc đã lập nhiều năm nên cần phải xem xét lại tính hiệu lực của di chúc, đồng thời cũng không được từ chối nhận di sản do đã được chỉ định hưởng di sản theo di chúc.

Vậy trong trường hợp này, người được hưởng di sản theo di chúc có được từ chối không? Trong phạm vi bài viết, chúng tôi sẽ phân tích các quy định của pháp luật nhằm giúp quý khách hàng hiểu rõ hơn về vấn đề này.

Theo quy định tại Điều 624 và Điều 640 BLDS 2015 “Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết”. Như vậy, di chúc là sự thể hiện ý nguyện cuối cùng của một người nhằm chuyển giao tài sản cho người khác sau khi chết.

Tuy nhiên, sau khi lập di chúc, nếu muốn thay đổi người được hưởng di sản hoặc huỷ bỏ di chúc thì “Người lập di chúc có thể sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc đã lập vào bất cứ lúc nào”. Trường hợp người lập di chúc không sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ thì di chúc này có hiệu lực kể từ thời điểm mở thừa kế. Do đó, cho dù di chúc đó được lập bao nhiêu năm nếu không bị sửa đổi, bổ sung, thay thế hoặc hủy bỏ thì di chúc đó vẫn có hiệu lực. Đồng thời, người được thừa kế theo di chúc nếu không muốn nhận di sản vẫn có quyền lập văn bản từ chối và khi đó phần di sản này sẽ được chia theo pháp luật được (điểm d, khoản 1, Điều 650 BLDS).

Trong thực tế có nhiều trường hợp những người nhận di sản thừa kế quá đông hoặc ở những nơi khác nhau, thậm chí là đang định cư ở nước ngoài. Do vậy, để thuận tiện cho việc thực hiện thủ tục khai nhận di sản thừa kế là nhà, đất đang tọa lạc tại Việt Nam, những người thừa kế thường làm văn bản từ chối nhận di sản để một người đại diện thực hiện.

Một trường hợp mà Văn phòng luật sư Lê Giang tiếp nhận, vị khách hàng trình bày hai vợ chồng có tạo lập được một căn nhà và có chung với nhau một người con duy nhất hiện đang định cư ở nước ngoài.

Nay người vợ đột ngột qua đời không để lại di chúc, cha mẹ vợ còn sống cũng đang định cư tại nước ngoài, tâm nguyện của người vợ lúc còn sống là sau này sẽ chuyển giao quyền sở hữu căn nhà cho con, nay người chồng muốn hoàn tất thủ tục khai nhận di sản thừa kế căn nhà này để cho người con đứng tên, nhưng người con đang học tập ở nước ngoài không thể về được, muốn được tư vấn và nghe ý kiến của luật sư để chọn phương hướng giải quyết tốt nhất trong trường hợp này.

Sau khi nghiên cứu quy định của pháp luật, Văn phòng luật sư đã đề xuất hướng giải quyết như sau:

Người con đang học tập ở nước ngoài lập văn bản từ chối nhận di sản thừa kế (có chứng thực của cơ quan lãnh sự Việt Nam tại nước nơi người con đang học tập), gửi về Việt Nam để người cha thực hiện thủ tục khai nhận di sản thừa kế.

Sau khi hoàn tất thủ tục khai nhận di sản và đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất, người cha có thể làm thủ tục tặng cho toàn bộ căn nhà trên cho người con khi người con có điều kiện về Việt Nam hoặc lập di chúc để lại cho người con nếu cần thiết.

Như vậy, qua tình huống trên cho thấy mặc dù phải thực hiện nhiều thủ tục hơn, nhưng với sự tư vấn của luật sư, vị khách hàng đã thực hiện được tâm nguyện của người vợ là chuyển giao toàn bộ quyền sử dụng và định đoạt căn nhà mà hai vợ chồng đã tạo lập được cho người con duy nhất của mình.

Thừa kế là một trong những chế định quan trọng liên quan đến việc xác định đối tượng được hưởng di sản do người chết để lại, được Nhà nước quy định cụ thể trong Bộ luật dân sự 2015. Về nguyên tắc, người được hưởng thừa kế theo quy định của pháp luật là những người có quan hệ huyết thống và quan hệ nhân thân với người chết như cha, mẹ, vợ, chồng, con, kể cả con nuôi, con riêng. Vậy trong trường hợp nào người con nuôi được hưởng di sản do cha mẹ nuôi để lại và phải đáp ứng các điều kiện gì?

Một trường hợp thực tế như sau: khách hàng là cháu ruột của cha mẹ nuôi, ông được nhận làm con nuôi từ khi còn nhỏ, nhưng cha mẹ nuôi lại không làm thủ tục nhận con nuôi theo quy định của pháp luật, giấy khai sinh cũng không mang họ cha nuôi hoặc mẹ nuôi, thực tế có sống chung từ khi còn nhỏ cho đến nay và ông đã được nhập vào hộ khẩu của cha mẹ nuôi, trong đó xác định có quan hệ với chủ hộ là con.

Sau khi cha mẹ nuôi chết, ông muốn làm thủ tục khai nhận di sản thừa kế. Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật để chứng minh được quan hệ nuôi dưỡng giữa người con nuôi và cha mẹ nuôi thì bắt buộc phải có giấy khai sinh của người con mang họ của cha nuôi hoặc mẹ nuôi; trường hợp không có giấy khai sinh, thì phải có giấy xác nhận của cơ quan có thẩm quyền về việc nhận nuôi con nuôi.

Mặc dù trong hộ khẩu có xác định là con và thực tế có sống chung nhưng chưa đủ căn cứ pháp lý để chứng minh quan hệ nuôi dưỡng, do đó không thể xác định ông là người thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ nhất theo quy định của pháp luật đối với di sản do cha mẹ nuôi để lại.

Trong trường hợp này, tài sản của người chết để lại sẽ được giải quyết theo hướng cho người thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ hai được nhận di sản.

Qua tình huống trên cho thấy rằng, thực tế trong đời sống hàng ngày có rất nhiều sự kiện xảy ra như: nhận nuôi con, nam nữ sống chung v.v…..nhưng không phải sự kiện nào cũng được Nhà nước công nhận và bảo vệ quyền và lợi ích của các bên tham gia quan hệ đó nếu như không tuân thủ các điều kiện pháp lý tương ứng, mỗi một người dân cần có kiến thức pháp lý cơ bản để không bị mất quyền lợi hợp pháp theo quy định.

Mọi thắc mắc xin vui lòng liên hệ với chúng tôi:

VĂN PHÒNG LUẬT SƯ LÊ GIANG

Trụ sở : 47/1 Nguyễn Văn Đậu, Phường 6, Quận Bình Thạnh, TP.Hồ Chí Minh

Luật sư Lê Hoài Giang- Trưởng văn phòng: 0903 392 117 (Telephone, Zalo, Viber, …)

Email: giang.lehoai@legianglaw.vn

Web: www.legianglaw.vn  

Di chúc là một giấy tờ hợp pháp thể hiện nguyện vọng, mong muốn của một người về cách phân chia tài sản mình có được sau khi chết. Vậy làm sao để lập được một văn bản di chúc có giá trị pháp lý, được pháp luật công nhận, không bị vô hiệu? Đây là thắc mắc của khách hàng mà Legianglaw thường xuyên được đề nghị tư vấn, bài viết sau sẽ cung cấp 1 số quy định pháp luật về vấn đề này.

Để di chúc có giá trị pháp lý, cần phải đảm bảo di chúc hợp pháp. Vì vậy, trong quá trình thực hiện việc lập di chúc bằng văn bản, cần lưu ý 1 số điều cơ bản sau:

– Người lập di chúc: là người đã thành niên, người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có thể lập di chúc, nếu được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý; không mất năng lực hành vi dân sự, phải minh mẫn, sáng suốt, không mắc bệnh tâm thần, không bị ép buộc, cưỡng chế để lập di chúc.

Nội dung bắt buộc trong di chúc: Ngày, tháng, năm lập di chúc; họ, tên và nơi cư trú của người lập di chúc; họ, tên người, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản hoặc xác định rõ các điều kiện để cá nhân, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản; di sản để lại và nơi có di sản; việc chỉ định người thực hiện nghĩa vụ và nội dung của nghĩa vụ (nếu có). Di chúc không được viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu; nếu di chúc gồm nhiều trang thì mỗi trang phải được đánh số thứ tự và có chữ ký hoặc điểm chỉ của người lập di chúc.

Người làm chứng cho di chúc: Người làm chứng cho việc lập di chúc có thể bất kỳ người nào và phải là những người không có mối quan hệ thừa kế với người để lại di sản thì mới được coi là hợp pháp .

Thời điểm lập di chúc: Là thời điểm một người còn sống hoặc đang lâm bệnh nặng và có nguyện vọng để lại tài sản cho người khác sau khi chết.

Công chứng di chúc: Sau khi lập di chúc, người lập di chúc phải tuyên bố nội dung di chúc, ký và điểm chi vào di chúc trước mặt công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã. Người có thẩm quyền chứng thực hoặc công chứng viên ký chứng nhận vào bản di chúc trước mặt người lập di chúc và người làm chứng.

Hy vọng các thông tin liên quan về việc lập di chúc bằng văn bản mà chúng tôi cung cấp trên đây giúp cho người lập di chúc và người thừa kế hiểu rõ hơn về quyền lợi hợp pháp của mình.

Nếu bạn cần tư vấn chi tiết hơn về trường hợp cụ thể của bạn, vui lòng liên hệ trực tiếp với chúng tôi theo thông tin sau:

VĂN PHÒNG LUẬT SƯ LÊ GIANG- LEGIANGLAW

Địa chỉ: 47/1 Nguyễn Văn Đậu, Phường 6, Quận Bình Thạnh, TP.HCM, Việt Nam.

Luật sư Lê Hoài Giang- Trưởng văn phòng

Điện thoại:  0903.392.117

Website: www.legianglaw.vn

Email: giang.lehoai@legianglaw.vn

Pháp luật quy định, cá nhân nào cũng có quyền định đoạt tài sản của mình bằng cách để lại tài sản của mình qua di chúc trước khi chết.  Tuy nhiên vì nhiều lý do khác nhau mà người lập di chúc không để lại tài sản của mình cho cha, mẹ, vợ, chồng, con chưa thành niên. Để bảo vệ quyền lợi của những người có quan hệ huyết thống, quan hệ hôn nhân gắn bó với người để lại di sản, pháp luật đã có những quy định về trường hợp những người thừa kế không có tên trong di chúc vẫn hưởng thừa kế.

Theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015, di sản của người chết để lại sẽ được chia theo di chúc hợp pháp, nếu không có di chúc hoặc di chúc không hợp lệ thì chia theo pháp luật. Tuy nhiên, dù phân chia theo di chúc hay theo pháp luật thì 4 nhóm người dưới đây được đều nhận được một phần di sản, kể cả khi không có tên trong di chúc. Điều 644 BLDS 2015 quy định cụ thể như sau:

  1. Con chưa thành niên: Trong trường hợp này, độ tuổi chưa thành niên được xác định tại thời điểm mở thừa kế tức là thời điểm người có di sản thừa kế chết.
  2. Cha/ mẹ của người để lại di sản: Cha, mẹ đẻ hoặc cha, mẹ nuôi của người để lại di sản.
  3. Vợ/ chồng của người để lại di sản: Vợ, chồng hợp pháp của người để lại di sản, theo pháp luật về hôn nhân và gia đình.
  4. Con thành niên mà không có khả năng lao động của người để lại di sản.

Như vậy, nếu không có tên trong di chúc nhưng thuộc các trường hợp kể trên thì mỗi người sẽ được hưởng phần di sản bằng 2/3 suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật.

Trường hợp người để lại di chúc chỉ cho họ hưởng di sản ít hơn 2/3 của một suất thừa kế theo pháp luật, thì những đối tượng này vẫn được hưởng bằng 2/3 suất của một người thừa kế theo pháp luật.

Tuy nhiên, nếu họ từ chối nhận di sản hoặc thuộc các trường hợp quy định tại K1 Điều 621 Bộ luật dân sự 2015 sau đây thì họ không có quyền hưởng di sản thừa kế:

  1. Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó; Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản;
  2. Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng;
  3. Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, huỷ di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản.

Hy vọng thông tin trong bài viết trên sẽ giúp các bạn hiểu rõ hơn về quy định liên quan đến những người thừa kế không phụ thuộc nội dung di chúc.

Nếu  bạn còn bất cứ vấn đề gì chưa rõ, vui lòng liên hệ trực tiếp với chúng tôi để được tư vấn, giải đáp một cách cụ thể nhất

VĂN PHÒNG LUẬT SƯ LÊ GIANG- LEGIANGLAW

Địa chỉ: 47/1 Nguyễn Văn Đậu, Phường 6, Quận Bình Thạnh, TP.HCM, Việt nam.

Trưởng văn phòng: Luật sư Lê Hoài Giang

Luật sư tư vấn(Telephone, zalo, viber) : 0903.392.117-0902.268.667- 0901.85.96.83.

Website: www.legianglaw.vn

Email: giang.lehoai@legianglaw.vn