
Về nguyên tắc và lẽ thông thường, khi quan hệ hôn nhân còn tồn tại, thì tài sản chung của vợ chồng vẫn còn tồn tại, ít khi có việc hai bên muốn phân chia khối tài sản riêng biệt cho từng bên. Tuy nhiên, trong thực tế vẫn có nhiều cặp vợ chồng muốn phân định rõ ràng tài sản của mỗi người, bởi vợ chồng có mẫu thuẫn trong quản lý tài chính hoặc để thuận lợi cho công việc chung nhưng chỉ cần một bên giao dịch, định đoạt và còn vì nhiều lý do khác. Theo quy định của Luật hôn nhân năm 2014, thì cả hai bên đều có quyền thỏa thuận phân chia tài sản chung.
Nguyên tắc phân chia tài sản chung của vợ chồng được quy định như sau:
– Vợ, chồng tự thỏa thuận phân chia một phần hoặc toàn bộ tài sản chung;
– Vợ, chồng có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết nếu như cả hai không đồng thuận quyết định việc phân chia.
Thỏa thuận phân chia tài sản chung của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân có hình thức bắt buộc là phải lập thành văn bản và được công chứng chứng nhận hoặc theo quy định của pháp luật.
Theo quy định tại Điều 39 Luật hôn nhân và gia đình 2014, việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, hiệu lực của thoả thuận sẽ được xác định theo từng trường hợp như sau:
– Trường hợp hai bên có thỏa thuận, thì thời điểm có hiệu lực của việc chia tài sản chung của vợ chồng là thời điểm dohai bên thỏa thuận và phải được ghi nhận trong văn bản; nếu không xác định thời điểm có hiệu lực trong văn bản, thì thời điểm có hiệu lực được tính từ ngày lập văn bản;
– Trường hợp tài sản được chia mà theo quy định của pháp luật, giao dịch liên quan đến tài sản đó phải tuân theo hình thức nhất định thì việc chia tài sản chung của vợ chồng có hiệu lực từ thời điểm việc thỏa thuận tuân thủ hình thức mà pháp luật quy định;
– Trường hợp Tòa án phân chia tài sản chung của vợ chồng, thì việc phân chia này có hiệu lực kể từ ngày bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực.
Riêng quyền và nghĩa vụ về tài sản giữa vợ, chồng với người thứ ba phát sinh trước thời điểm việc chia tài sản chung có hiệu lực vẫn có giá trị pháp lý, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
Hậu quả của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân
Sau khi chia tài sản chung của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân thì tài sản được chia, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của mỗi bên sẽ là tài sản riêng của vợ, chồng, trừ trường hợp vợ, chồng có thỏa thuận khác hoặc có việc nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung, phần tài sản còn lại không chia vẫn là tài sản chung của vợ chồng.
Việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân không làm chấm dứt chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định.
Chấm dứt hiệu lực của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân
Vợ chồng có quyền thỏa thuận chấm dứt hiệu lực của việc chia tài sản chung, và hình thức thỏa thuận của chấm dứt hiệu lực của việc phân chia tài sản bắt buộc là văn bản và được công chứng theo yêu cầu của vợ chồng hoặc theo quy định của pháp luật.
Kể từ ngày thỏa thuận chấm dứt hiệu lực việc chia tài sản chung có hiệu lực thì việc xác định tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng được thực hiện theo quy định tại Điều 33, Điều 43 Luật hôn nhân và gia đình 2014. Phần tài sản đã được chia vẫn thuộc sở hữu riêng của vợ chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.
Tuy nhiên,việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân sẽ bị vô hiệu khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
- Việc chia tài sản chung của vợ chồng ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích của gia đình; quyền, lợi ích hợp pháp của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình;
- Nhằm trốn tránh thực hiện các nghĩa vụ:
– Nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng;
– Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại;
– Nghĩa vụ thanh toán khi bị Tòa án tuyên bố phá sản;
– Nghĩa vụ trả nợ cho cá nhân, tổ chức;
– Nghĩa vụ nộp thuế hoặc nghĩa vụ tài chính khác đối với nhà nước;
– Nghĩa vụ khác về tài sản theo quy định của Luật nầy, Bộ luật dân sự và quy định khác của pháp luật có liên quan.