Trong thực tế không ít người gặp tình huống éo le khi cho mượn hoặc giao quyền chiếm hữu, sử dụng tài sản là động sản không có đăng ký quyền sở hữu cho người khác nhưng không xác lập thành văn bản vì nhiều lý do như bạn bè, người thân trong gia đình, quan hệ đồng nghiệp…chính vì vậy khi mối quan hệ không còn tốt đẹp và xảy ra tranh chấp thì người chủ tài sản sẽ không có chứng cứ để chứng minh quyền sở hữu đối với tài sản đó, đồng nghĩa với việc không có quyền yêu cầu người đang chiếm hữu, sử dụng tài sản đó trả lại cho mình.

Trong suốt quá trình hành nghề của mình, chúng tôi đã gặp nhiều trường hợp tương tự như vậy đến tư vấn và yêu cầu hỗ trợ dịch vụ pháp lý kiện đòi lại tài sản. Đúc kết từ các kinh nghiệm có được, chúng tôi xin chia sẽ đến Quý khách hàng các bước chuẩn bị hồ sơ khởi kiện trong trường hợp trên như sau:

Trước khi nộp đơn khởi kiện, nên trực tiếp đến gặp mặt và đàm phán, thỏa thuận với bên đang nắm giữ tài sản để yêu cầu trả lại tài sản. Trong trường hợp không thỏa thuận được thì thực hiện bước tiếp theo đơn gửi đến cơ quan nhà nước ở địa phương (xã, phường, thị trấn) đề nghị hòa giải về vụ việc trên để xác lập chứng cứ. Nếu bên đang chiếm giữ tài sản vẫn không hợp tác, thì hoàn tất hồ sơ và khởi kiện ra Tòa án theo thủ tục tố tụng dân sự. Hồ sơ khởi kiện bao gồm:

  • Đơn khởi kiện
  • Bản sao chứng thực Giấy tờ tùy thân như Chứng minh nhân dân/Căn cước công dân, hộ chiếu…
  • Các tài liệu, chứng cứ chứng minh việc giao dịch đã thu thập được (chứng cứ có thể là: Vật chứng; Lời khai của đương sự; Lời khai của người làm chứng; Kết luận giám định; Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ; Kết quả định giá tài sản, thẩm định giá tài sản; Văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý do người có chức năng lập).

Như vậy, việc đòi lại tài sản khi không có chứng cứ sẽ khó khăn hơn và mất nhiều thời gian, công sức hơn trong việc thu thập chứng cứ, đôi khi không đạt được kết quả như mong muốn. Do đó, khi tham gia giao dịch các bên nên xác lập bằng văn bản tránh trường hợp rơi vào tình huống “tình ngay lý giang”, mất tài sản, mất cả tình cảm chỉ vì sự cả nể.

Cho vay tiền là giao dịch dân sự hết sức phổ biến hiện nay, nhưng không phải trường hợp nào bên cho vay và bên vay đều lập hợp đồng vay hoặc ký giấy nhận nợ. Nếu có vay chỉ thông qua giao dịch bằng miệng, không lập chứng từ vậy người cho vay có đòi lại được tiền không khi đến hạn mà người vay không trả. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi sẽ phân tích những quy định của pháp luật về điều kiện có hiệu lực của một giao dịch dân sự, cũng như thực tiễn giải quyết các vụ tranh chấp nêu trên.

Theo quy định tại Điều 116, Khoản 1 Điều 119 Bộ Luật Dân sự 2015 quy định về giao dịch dân sự như sau:Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự và thể hiện ở các hình thức sau:

– Giao dịch dân sự được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể.

– Giao dịch dân sự thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử được coi là giao dịch bằng văn bản.

Căn cứ Điều 463 Bộ luật Dân sự 2015 cũng quy định về hợp đồng vay tài sản như sau: “Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định.”

Về hình thức của Hợp đồng cho vay tài sản, hiện nay pháp luật không quy định bắt buộc hình thức của hợp đồng vay tài sản phải thể hiện bằng văn bản mà các bên có thể thỏa thuận bằng miệng, bằng văn bản hoặc hành vi cụ thể hoặc thông qua các phương tiện điện tử như tin nhắn điện thoại, email trong đó có thể hiện nội dung cho vay và vay tiền.

Do đó, nếu việc cho vay tiền thể hiện thông qua các hình thức trên đều được pháp luật công nhận đó là một giao dịch dân sự và người cho vay có quyền yêu cầu bên vay trả tiền. Tuy nhiên, trong thực tế nếu việc cho vay tiền thể hiện thông qua lời nói hoặc hành vi mà người vay không thừa nhận thì rất khó để người cho vay đòi lại được tiền vì không có chứng cứ chứng minh khi có tranh chấp xảy ra. Vì vậy, để đảm bảo tính pháp lý cho việc thu hồi khoản tiền cho vay (gốc và lãi), người cho vay nên lập thành văn bản, có chữ ký xác nhận của bên vay hoặc yêu cầu cơ quan công chứng xác nhận.

Một tổ chức, cá nhân xác lập quyền sở hữu thông qua việc tạo lập nên tài sản do hoặc do mua bán, chuyển nhượng, được thừa kế…nhưng trong cuộc sống có trường hợp vô tình nhặt được tài sản của chủ sở hữu đánh rơi, bỏ quên thì người nhặt được có quyền sở hữu đối với tài sản đó không. Là tình huống thường gặp xảy ra trong cuộc sống, nhưng không phải ai cũng biết cách xử lý, tránh trường hợp phải chịu trách nhiệm pháp lý do không hiểu quy định của pháp luật. Vì vậy chúng tôi thông tin đến Quý khách hàng quy định của pháp luật về trường hợp này như sau:

Tài sản bị đánh rơi, bỏ quên là tài sản thuộc quyền sở hữu, sử dụng của người khác, không phải tài sản vô chủ. Do đó, tại Điều 230 Bộ luật Dân sự 2015 quy định: Người phát hiện tài sản do người khác đánh rơi, bỏ quên mà biết được địa chỉ của người đánh rơi hoặc bỏ quên thì phải thông báo hoặc trả lại tài sản cho người đó; nếu không biết địa chỉ của người đánh rơi hoặc bỏ quên thì phải thông báo hoặc giao nộp cho Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc công an cấp xã nơi gần nhất để thông báo công khai cho chủ sở hữu biết mà nhận lại. Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc công an cấp xã đã nhận tài sản phải thông báo cho người đã giao nộp về kết quả xác định chủ sở hữu.

Sau 01 năm, kể từ ngày thông báo công khai về tài sản do người khác đánh rơi, bỏ quên mà không xác định được chủ sở hữu hoặc chủ sở hữu không đến nhận thì quyền sở hữu đối với tài sản này được xác định như sau:

–  Trường hợp tài sản bị đánh rơi, bỏ quên có giá trị nhỏ hơn hoặc bằng mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định thì người nhặt được được xác lập quyền sở hữu đối với tài sản đó theo quy định của Bộ luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan; trường hợp tài sản có giá trị lớn hơn mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định thì sau khi trừ chi phí bảo quản, người nhặt được được hưởng giá trị bằng mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định và 50% giá trị của phần vượt quá mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định, phần giá trị còn lại thuộc về Nhà nước;

– Trường hợp tài sản bị đánh rơi, bị bỏ quên là tài sản thuộc di tích lịch sử – văn hóa theo quy định của Luật di sản văn hóa thì tài sản đó thuộc về Nhà nước; người nhặt được tài sản được hưởng một khoản tiền thưởng theo quy định của pháp luật.

Như vậy, người nhặt được tài sản bị đánh rơi, bỏ quên có thể trở thành chủ sở hữu tài sản nếu đáp ứng các điều kiện nêu trên về giá trị tài sản, trừ tài sản là di tích lịch sử – văn hóa theo quy định của Luật di sản văn hóa.

  1. Định nghĩa của Đăng kiểm ô tô là gì.

“Đăng kiểm ô tô” là quá trình kiểm tra định kỳ các yếu tố an toàn và khả năng hoạt động của một chiếc ô tô để đảm bảo nó đáp ứng các tiêu chuẩn và quy định an toàn giao thông của quốc gia. Quá trình đăng kiểm ô tô thường bao gồm kiểm tra các hệ thống và thiết bị trên xe như hệ thống phanh, hệ thống lái, đèn chiếu sáng, khí thải, và các yếu tố khác liên quan đến an toàn và chất lượng xe. Việc đăng kiểm ô tô thường được yêu cầu định kỳ tại các đơn vị kiểm tra do cơ quan chức năng quy định nhằm đảm bảo an toàn và giảm thiểu tai nạn giao thông.

  • Quy định về xử lý vi phạm về phương tiện tham gia giao thông khi quá hạn đăng kiểm.

Theo quy đinh tại Điểm đ, e Khoản 5 Điều 16 Nghị Định 100/2019/NĐ-CP quy định như sau:

5. Phạt tiền từ 4.000.000 đồng đến 6.000.000 đồng đối với một trong các hành vi vi phạm sau đây:

a….

đ) Sử dụng Giấy đăng ký xe, Giấy chứng nhận, tem kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường không do cơ quan có thẩm quyền cấp hoặc bị tẩy xóa; sử dụng Giấy đăng ký xe không đúng số khung, số máy của xe (kể cả rơ moóc và sơ mi rơ moóc);

e) Điều khiển xe không có Giấy chứng nhận hoặc tem kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường (đối với loại xe có quy định phải kiểm định, trừ xe đăng ký tạm thời) hoặc có nhưng đã hết hạn sử dụng từ 01 tháng trở lên (kể cả rơ moóc và sơ mi rơ moóc).

Ngoài ra tại Điểm a khoản 6 Điều 16 Nghị Định 100/2019/NĐ-CP cũng quy định rõ người điều khiển xe thực hiện hành vi vi phạm tại Điểm e khoản 5 tại nghị định này sẽ bị tước Giấy phép  lái xe từ 01 tháng đến 03 tháng. Đồng thời theo quy định tại Khoản 8 Điều 30 nghị định này thì chủ sở hữu phương tiện có thể bị phạt từ 4.000.000 đồng đến 6.000.000 đồng đối với cá nhân khi phương tiện của mình quá hạn đăng kiểm.

Như vậy cả tài xế và chủ phương tiện đều bị xử phạt khi để phương tiện quá hạn đăng kiểm tham gia lưu thông trên đường. Do vậy tài xế và chủ xe phải bảo đảm phương tiện của mình đảm bảo đầy đủ điều kiện mà pháp luật quy định khi tham gia giao thông.

1. Cách thức thực hiện đề nghị cấp giấy xác nhận độc thân trực tuyến

Để thuận lợi hơn trong việc  có được giấy xác nhận độc thân, mà không phải trực tiếp đến cơ quan chức năng, người dân có thể chọn cách làm trực tuyến thông qua hệ thống Dịch vụ công, theo chỉ dẫn cụ thể như sau:

 – Bước 1: Chọn https://dichvucong.gov.vn/p/home/dvc-chi-tiet-thu-tuc-hanh-chinh.html?ma_thu_tuc=1.004873

– Bước 2: Lần lượt chọn chi tiết sau

 Tỉnh, thành phố; Quận, huyện; Xã, phường.

Sau đó nhấn vào “Đồng ý”

Lưu ý: Phải chọn nơi thường trú của người có yêu cầu cấp giấy xác nhận độc thân.

– Bước 3: Chọn “Nộp trực tuyến”

– Bước 4: Chọn loại tài khoản đăng nhập

Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân cho người nước ngoài là một tài liệu pháp lý có giá trị chứng thực tình trạng hôn nhân của người nước ngoài và thường được yêu cầu xuất trình hoặc nộp khi thực hiện các thủ tục liên quan đến:

1. Đăng ký kết hôn với người Việt Nam hoặc người nước ngoài khác tại Việt Nam.

2. Thực hiện các thủ tục tại các cơ quan chức năng như một trong những yêu cầu cần có để được cấp giấy tờ tùy thân, giấy phép lao động, giấy phép kinh doanh, và các giấy tờ khác.

3. Đăng ký kết hôn tại nước ngoài với công dân của quốc gia đó.

………..

Thực tế qua các yêu cầu tư vấn,  trong một số trường hợp, khi người nước ngoài thường xuyên cư trú tại Việt Nam, khi nộp hồ sơ đăng ký kết hôn với công dân Việt Nam, cơ quan tiếp nhận hồ sơ yêu cầu bổ sung thêm giấy xác nhận tình trạng hôn nhân trong khoảng thời gian cư trú tại Việt Nam. Vậy người nước ngoài có xin được giấy xác nhận tình trạng hôn nhân ở Việt Nam không? Thẩm quyền cấp giấy xác nhận và thủ tục cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân như thế nào.

1. Quy định về thẩm quyền cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân.

   Theo quy định tại Điều 21 Nghị Định 123/2015/NĐ-CP thẩm quyền cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân như sau:

1. Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi thường trú của công dân Việt Nam thực hiện việc cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân.

Trường hợp công dân Việt Nam không có nơi thường trú, nhưng có đăng ký tạm trú theo quy định của pháp luật về cư trú thì Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi người đó đăng ký tạm trú cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân.

2. Quy định tại Khoản 1 Điều này cũng được áp dụng để cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân cho công dân nước ngoài và người không quốc tịch cư trú tại Việt Nam, nếu có yêu cầu.

2. Thủ tục cấp giấy tình trạng hôn nhân.

 Theo Điều 22 Nghị Định 123/2015/NĐ-CP quy định về thủ tục cấp Giấy xác nhận hôn nhân như sau:

1. Người yêu cầu xác nhận tình trạng hôn nhân nộp Tờ khai theo mẫu quy định. Trường hợp yêu cầu xác nhận tình trạng hôn nhân nhằm mục đích kết hôn thì người yêu cầu phải đáp ứng đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình.

2. Trường hợp người yêu cầu xác nhận tình trạng hôn nhân đã có vợ hoặc chồng nhưng đã ly hôn hoặc người vợ hoặc chồng đã chết thì phải xuất trình hoặc nộp giấy tờ hợp lệ để chứng minh; nếu thuộc trường hợp quy định tại Khoản 2 Điều 37 của Nghị định này thì nộp bản sao trích lục hộ tịch tương ứng.

3. Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, công chức tư pháp – hộ tịch kiểm tra, xác minh tình trạng hôn nhân của người có yêu cầu. Nếu người yêu cầu có đủ điều kiện, việc cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân là phù hợp quy định pháp luật thì công chức tư pháp – hộ tịch trình Chủ tịch Ủy ban nhân dân ký cấp 01 bản Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân cho người có yêu cầu. Nội dung Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân phải ghi đúng tình trạng hôn nhân của người có yêu cầu và mục đích sử dụng Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân.

4. Trường hợp người yêu cầu xác nhận tình trạng hôn nhân đã từng đăng ký thường trú tại nhiều nơi khác nhau, người đó có trách nhiệm chứng minh về tình trạng hôn nhân của mình. Trường hợp người đó không chứng minh được thì công chức tư pháp – hộ tịch báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã có văn bản đề nghị Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó đã từng đăng ký thường trú tiến hành kiểm tra, xác minh về tình trạng hôn nhân của người đó.

Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản đề nghị, Ủy ban nhân dân cấp xã được yêu cầu tiến hành kiểm tra, xác minh và trả lời bằng văn bản cho Ủy ban nhân dân cấp xã yêu cầu về tình trạng hôn nhân của người đó trong thời gian thường trú tại địa phương.

5. Ngay trong ngày nhận được văn bản trả lời, nếu thấy đủ cơ sở, Ủy ban nhân dân cấp xã cấp Giy xác nhận tình trạng hôn nhân cho người yêu cu theo quy định tại Khoản 3 Điều này.

6. Trường hợp cá nhân yêu cầu cấp lại Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân để sử dụng vào mục đích khác hoặc do Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân đã hết thời hạn sử dụng theo quy định tại Điều 23 của Nghị định này, thì phải nộp lại Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân đã được cấp trước đó.

 Như vậy người nước ngoài có thể yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền tại Việt Nam nơi họ đăng ký tạm trú theo quy định của pháp luật để xin cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân như phân tích trên.

Một trong những vấn đề được nhiều người lao động quan tâm là cuộc sống sau khi nghỉ hưu. Vì thế ngày nay có rất nhiều người tham gia đóng bảo biểm xã hội để được hưởng lương hưu hằng tháng sau khi nghỉ việc. Tuy nhiên, cũng có một số bộ phận không muốn nhận lương hưu hằng tháng mà muốn được rút toàn bộ số tiền bảo hiểm một lần để làm vốn đầu tư kinh doanh. Vậy những trường hợp nào được nhận bảo hiểm xã hội một lần sau khi nghỉ việc?

Căn cứ Điều 60 Luật BHXH năm 2014 và Nghị quyết 93/2015/QH13, những người lao động sau đây sẽ được giải quyết hưởng BHXH 1 lần:

Người lao động có yêu cầu thì được hưởng bảo hiểm xã hội một lần nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Đủ tuổi hưởng lương hưu mà chưa đủ 20 năm đóng bảo hiểm xã hội hoặc  lao động nữ là người hoạt động chuyên trách hoặc không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn tham gia bảo hiểm xã hội khi nghỉ việc mà có từ đủ 15 năm đến dưới 20 năm đóng bảo hiểm xã hội và đủ 55 tuổi và không tiếp tục tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện;

b) Ra nước ngoài để định cư;

c) Người đang bị mắc một trong những bệnh nguy hiểm đến tính mạng như ung thư, bại liệt, xơ gan cổ chướng, phong, lao nặng, nhiễm HIV đã chuyển sang giai đoạn AIDS và những bệnh khác theo quy định của Bộ Y tế;

d) Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật công an nhân dân; người làm công tác cơ yếu hưởng lương như đối với quân nhân; Hạ sĩ quan, chiến sĩ quân đội nhân dân; hạ sĩ quan, chiến sĩ công an nhân dân phục vụ có thời hạn; học viên quân đội, công an, cơ yếu đang theo học được hưởng sinh hoạt phí khi phục viên, xuất ngũ, thôi việc mà không đủ điều kiện để hưởng lương hưu.

Như vậy, chỉ có các trường hợp nêu trên mới được xem xét cho rút bảo hiểm xã hội một lần sau khi người lao động nghỉ việc nếu có yêu cầu.

Chính phủ đã ban hành Nghị định 104/2022/NĐ-CP ngày 21/12/2022 sửa đổi, bổ sung một số quy định về nộp, xuất trình sổ hộ khẩu, sổ tạm trú giấy khi thực hiện thủ tục hành chính, cung cấp dịch vụ công. Nghị định có hiệu lực từ 1.1.2023, nhằm hướng dẫn thực hiện việc bãi bỏ sổ hộ khẩu giấy, sổ tạm trú giấy theo luật Cư trú 2020. Theo đó, một số thủ tục hành chính có sự thay đổi đáng kể, giúp cho người dân rút ngắn được thời gian, giấy tờ như trước đây, cụ thể:

Đối với lĩnh vực đất đai

Theo quy định hiện hành tại Nghị định 43/2014/NĐ-CP, một trong những căn cứ để xác định việc sử dụng đất ổn định là giấy tờ về đăng ký hộ khẩu thường trú, tạm trú dài hạn tại nhà ở gắn với đất ở. Tuy nhiên, với quy định mới tại Nghị định 104/2022/NĐ-CP ngày 21/12/2022, người dân chỉ cần cung cấp CMND hoặc thẻ CCCD hoặc giấy khai sinh. Trường hợp không khai thác được thông tin cư trú của công dân trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư thì bổ sung giấy xác nhận thông tin về cư trú.

Một chính sách khác cũng liên quan trong lĩnh vực đất đai là Nghị định 168/2016/NĐ-CP ngày 27/12/2016, quy định hồ sơ nhận khoán rừng tự nhiên, rừng trồng, đất rừng; vườn cây cao su, chè, cà phê, cây ăn quả lâu năm… bao gồm bản sao chụp sổ hộ khẩu đối với cá nhân, hộ gia đình. Đối với cộng đồng dân cư thôn thì cần có bản sao chụp sổ hộ khẩu của các cá nhân và hộ gia đình trong cộng đồng. Nhưng tới đây, theo quy định mới tại Nghị định 104/2022/NĐ-CP, kể từ 1.1.2023 hồ sơ đề nghị nhận khoán không còn yêu cầu cung cấp sổ hộ khẩu đối với cá nhân hộ gia đình. Riêng đối với cộng đồng dân cư thì yêu cầu thông tin về số định danh cá nhân của các thành viên trong danh sách.

Đối với lĩnh vực điện

Hiện nay, Nghị định 137/2013/NĐ-CP quy định nếu muốn ký hợp đồng mua bán điện phục vụ mục đích sinh hoạt, người mua điện phải cung cấp bản sao của một trong các giấy tờ: hộ khẩu thường trú, hoặc sổ tạm trú; giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở hoặc quyết định phân nhà; hợp đồng mua bán nhà hợp lệ; hợp đồng thuê nhà có thời hạn từ 1 năm trở lên; giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (trên đất đã có nhà ở); hợp đồng ủy quyền quản lý và sử dụng nhà được công chứng hoặc chứng thực. Với quy định mới tại Nghị định 104/2022/NĐ-CP, người mua điện chỉ cần có thông tin về cư trú của hộ gia đình tại địa điểm mua điện hoặc giấy tờ chứng minh quyền sở hữu, quản lý, sử dụng địa điểm mua điện.

Về hồ sơ đăng ký, bên mua điện cần cung cấp CMND hoặc thẻ CCCD, giấy xác nhận thông tin về cư trú hoặc giấy thông báo số định danh cá nhân và thông tin công dân trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư của cá nhân đại diện bên mua điện.

Đối với lĩnh vực BHYT

Nghị định 104/2022/NĐ-CP bổ sung nhiều điểm mới liên quan đến BHYT. Theo đó, quy định về nhóm tham gia BHYT hộ gia đình sửa đổi từ “người có tên trong hộ khẩu” thành “người có tên trong cùng một hộ gia đình đăng ký thường trú…”; “người có tên trong sổ tạm trú” thành “những người có tên trong cùng một hộ gia đình đăng ký tạm trú…” . Ngoài ra, với thủ tục nhận thay tiền giải quyết chế độ BHXH, nghị định mới cũng bỏ cụm từ “bản sao sổ hộ khẩu”. Các giấy tờ cần xuất trình khi đến nhận thay gồm:

  • Nếu là thân nhân của người hưởng chế độ: cung cấp giấy hẹn, CMND hoặc thẻ CCCD và một trong các giấy tờ chứng minh là thân nhân của người hưởng BHYT: bản sao giấy khai sinh hoặc giấy chứng sinh hoặc giấy chứng nhận kết hôn hoặc giấy xác nhận thông tin về cư trú hoặc giấy thông báo số định danh cá nhân và thông tin công dân trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư.
  • Nếu là người giám hộ: cung cấp giấy hẹn, CMND hoặc thẻ CCCD, giấy tờ chứng minh là giám hộ đương nhiên của người hưởng BHYT (bản sao giấy khai sinh hoặc giấy chứng sinh hoặc giấy chứng nhận kết hôn hoặc giấy xác nhận thông tin về cư trú hoặc giấy thông báo số định danh cá nhân và thông tin công dân trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư).

Đối với lĩnh vực giáo dục (chính sách hỗ trợ học sinh)

Nghị định 116/2016/NĐ-CP quy định hồ sơ đề nghị hưởng chính sách hỗ trợ đối với học sinh và trường phổ thông ở xã, thôn đặc biệt khó khăn phải có sổ hộ khẩu (bản sao có mang bản chính để đối chiếu hoặc bản sao có chứng thực).

Còn với Nghị định 104/2022/NĐ-CP, người làm hồ sơ chỉ cần nộp bản sao của một trong các giấy tờ: CMND hoặc thẻ CCCD, giấy xác nhận thông tin về cư trú hoặc giấy thông báo số định danh cá nhân và thông tin công dân trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư trong trường hợp cơ quan, tổ chức không thể khai thác thông tin cư trú của công dân trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư.

Tương tự, Nghị định 105/2020 quy định cha mẹ khi làm hồ sơ hỗ trợ ăn trưa cho trẻ em mẫu giáo (trường hợp đủ điều kiện được hưởng) phải cung cấp bản sao kèm theo bản chính để đối chiếu hoặc bản sao có chứng thực sổ hộ khẩu. Nhưng theo Nghị định 104/2022/NĐ-CP, phụ huynh chỉ cần nộp bản sao của một trong các giấy tờ: CMND hoặc thẻ CCCD, giấy xác nhận thông tin về cư trú hoặc giấy thông báo số định danh cá nhân và thông tin công dân trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư trong trường hợp cơ quan, tổ chức không thể khai thác thông tin cư trú của công dân trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư. Với đối tượng trẻ em mầm non là con công nhân, người lao động làm việc tại khu công nghiệp, khi làm hồ sơ đề nghị trợ cấp, cha mẹ chỉ cần cung cấp giấy khai sinh, thay vì phải nộp cả sổ hộ khẩu hoặc giấy xác nhận tạm trú như trước đây.

Cùng với sự phát triển nhanh của công nghệ thông tin, các ngân hàng ngày càng có nhiều dịch vụ được thực hiện bằng hình thức trực tuyến mà chủ tài khoản không cần phải đến ngân hàng, tiết kiệm được thời gian, nhanh chóng, tiện lợi. Tuy nhiên, đi cùng với các tiện ích thì trong quá trình giao dịch cũng xảy ra một số trường hợp sai sót, dẫn đến phát sinh nhiều vấn đề pháp lý có liên quan mà khách hàng và chính ngân hàng không thể giải quyết được.

Thực tế trong quá trình giải quyết vụ việc chuyển tiền nhầm qua giao dịch ebanking, tuy cùng một tình huống, cũng có sự hỗ trợ từ văn phòng luật sư, nhưng lại có cách giải quyết khác nhau:

1. Trong trường hợp người chuyển tiền có được thông tin và tự liên hệ với người nhận nhầm tiền, người này không hợp tác, nhưng nếu Ngân hàng hỗ trợ liên lạc và làm việc được với người nhận nhầm và người này tự nguyện trả lại thì vụ việc giải quyết xong .

2. Trong trường hợp khách hàng chuyển nhầm tiền đã liên lạc với người nhận nhầm hoặc ngân hàng đã hỗ trợ liên lạc nhưng người này vẫn không hợp tác, thì luật sư sẽ hỗ trợ để đề nghị cơ quan công an nơi người nhận nhầm có tài khoản xử lý theo quy định và thường thời gian để được hoàn tiền lại sẽ lâu hơn.

3. Một trường hợp hi hữu khác: Người nhận nhầm là giám đốc của một công ty TNHH và đã chết, lúc này không đơn giản là nhờ ngân hàng hỗ trợ hay đề nghị cơ quan công an xử lý, mà số tiền này đã trở thành di sản thừa kế và buộc phải giải quyết thừa kế theo pháp luật. Trường hợp này người chuyển nhầm tiền phải làm thủ tục yêu cầu ngân hàng nơi nhận tiền phong tỏa tài khoản cho đến khi hoàn tất thủ tục khai thừa kế theo quy định của pháp luật.

Trên đây là những tình huống điển hình mà văn phòng luật sư đã hỗ trợ có kết quả tốt đẹp cho khách hàng.

Trong thực tế cuộc sống có rất nhiều trường hợp một người gây thiệt hại cho người khác trong trạng thái không có khả năng nhận thức về hành vi của mình, vậy những thiệt hại gây ra cho người bị hại ai là người chịu trách nhiệm bồi thường?

Theo quy định của BLDS những trường hợp sau đây buộc phải có người giám hộ:

– Người chưa thành niên không còn cha, mẹ hoặc không xác định được cha, mẹ;

– Người chưa thành niên có cha, mẹ nhưng cha, mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ đều có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi; cha, mẹ đều bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ đều bị Tòa án tuyên bố hạn chế quyền đối với con; cha, mẹ đều không có điều kiện chăm sóc, giáo dục con và có yêu cầu người giám hộ;

– Người mất năng lực hành vi dân sự;

– Người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.

Vậy người giám hộ chịu trách nhiệm đến đâu đối với những thiệt hại do người được giám hộ gây ra ?

Tại khoản 3 Điều 586 BLDS 2015 người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi gây thiệt hại mà có người giám hộ thì người đó được dùng tài sản của người được giám hộ để bồi thường; nếu người được giám hộ không có tài sản hoặc không đủ tài sản của bồi thường thì người giám hộ phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu người giám hộ chứng minh được mình không có lỗi trong việc giám hộ thì không phải lấy tài sản của mình ra để bồi thường.

Như vậy, phạm vi trách nhiệm của người giám hộ đối với những thiệt hại do người được giám hộ gây ra chỉ khi người giám hộ có lỗi trong việc giám hộ dẫn đến  người được giám hộ gây thiệt hại cho người khác. Nếu người giám hộ chứng minh được thiệt hại xảy ra không do lỗi của mình thì dù người được giám hộ không có tài sản hoặc có tài sản nhưng không đủ để bồi thường, thì người giám hộ cũng không có nghĩa vụ dùng tài sản của mình ra để bồi thường thiệt hại do người được giám hộ gây ra.