Cho vay tiền là giao dịch dân sự hết sức phổ biến hiện nay, nhưng không phải trường hợp nào bên cho vay và bên vay đều lập hợp đồng vay hoặc ký giấy nhận nợ. Nếu có vay chỉ thông qua giao dịch bằng miệng, không lập chứng từ vậy người cho vay có đòi lại được tiền không khi đến hạn mà người vay không trả. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi sẽ phân tích những quy định của pháp luật về điều kiện có hiệu lực của một giao dịch dân sự, cũng như thực tiễn giải quyết các vụ tranh chấp nêu trên.
Theo quy định tại Điều 116, Khoản 1 Điều 119 Bộ Luật Dân sự 2015 quy định về giao dịch dân sự như sau:Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự và thể hiện ở các hình thức sau:
– Giao dịch dân sự được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể.
– Giao dịch dân sự thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử được coi là giao dịch bằng văn bản.
Căn cứ Điều 463 Bộ luật Dân sự 2015 cũng quy định về hợp đồng vay tài sản như sau: “Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định.”
Về hình thức của Hợp đồng cho vay tài sản, hiện nay pháp luật không quy định bắt buộc hình thức của hợp đồng vay tài sản phải thể hiện bằng văn bản mà các bên có thể thỏa thuận bằng miệng, bằng văn bản hoặc hành vi cụ thể hoặc thông qua các phương tiện điện tử như tin nhắn điện thoại, email trong đó có thể hiện nội dung cho vay và vay tiền.
Do đó, nếu việc cho vay tiền thể hiện thông qua các hình thức trên đều được pháp luật công nhận đó là một giao dịch dân sự và người cho vay có quyền yêu cầu bên vay trả tiền. Tuy nhiên, trong thực tế nếu việc cho vay tiền thể hiện thông qua lời nói hoặc hành vi mà người vay không thừa nhận thì rất khó để người cho vay đòi lại được tiền vì không có chứng cứ chứng minh khi có tranh chấp xảy ra. Vì vậy, để đảm bảo tính pháp lý cho việc thu hồi khoản tiền cho vay (gốc và lãi), người cho vay nên lập thành văn bản, có chữ ký xác nhận của bên vay hoặc yêu cầu cơ quan công chứng xác nhận.